《 dịch kinh 》 là nho gia kinh điển , nhóm qua đứng đầu . Ban sơ đến từ cổ nhân của xem bói ghi chép ghi chép , thông qua đối cổ đại sự kiện của ghi chép ghi chép nghĩ lại , đã bao hàm hứa thêm người trung quốc đặc hữu triết học tư tưởng cùng sinh hoạt kinh nghiệm , thành là trung quốc văn hóa của căn bản , là nho , đạo, hắc , pháp , lính , danh , âm dương bao gồm tử bách gia tư tưởng của trọng yếu nguồn gốc . 1 , 《 dịch kinh 》 của kết cấu 《 dịch kinh 》 là do một bộ tượng đi xa ký hiệu hệ thống 64 quẻ tạo thành . Dụng hào dương (1) cùng âm hào (-- ) đến phân khác tượng đi xa thiên, địa, nam , nữ nhân , dương , âm , cương, nhu , động , tĩnh , lên chức , giảm các loại, dấu hiệu cho đối lập với nhau của mọi thứ sự vật cùng hiện tượng . ( chú thích: hào âm đọc gieo ) Nghe nói phục hy đem hào dương , âm hào sắp hàng , thường tam hào tạo thành một quẻ , cho ra tám loại phương thức sắp xếp: càn , khôn , chấn , tốn , Khảm , Ly , cấn , Đoài , phân khác tượng đi xa tự nhiên của tám loại cơ bản sự vật: thiên, địa, sét , phong, thủy, hỏa , Sơn , trạch . Bát quái là 《 dịch kinh 》 giả tượng rõ ý hình thức biểu hiện của căn bản . "Văn vương câu mà diễn chu dịch ", tục truyền , Chu Văn Vương đem bát quái lưỡng hai lần điệp , diễn biến thành vậy 64 quẻ . Dịch kinh 64 quẻ phân khác tượng đi xa 64 loại sự tình vật cùng hiện tượng của đặc biệt tình trạng thái , mà quẻ trong lục hào của qua lại quan hệ , lại biểu đạt sự vật quy luật vận hành . 64 quẻ bắt đầu tại càn , khôn , cuối cùng tức tế , mùi tế , liền nhau lưỡng quẻ thì thêm lấy quẻ tượng hỗ là đảo trí là thứ tự . Trong đó có quẻ thể đảo trí mà quẻ hình bất biến giả tính tám cái , thì lại lấy lục hào của âm dương hỗ thay là thứ tự . Cuối cùng của , từ 64 quẻ kế thừa tướng chịu sắp xếp trong phản ánh sự vật sản sinh , phát triển chuyển hóa trình tự , cái này tạo thành lấy âm dương hào làm hạch tâm , lấy bát quái là căn bản của ký hiệu tượng đi xa hệ thống . Lúc này , sinh ra thuyết minh 64 quẻ quẻ hào từ . Thuyết minh mỗi một quẻ hàm nghĩa lời quái từ . Mỗi một quẻ bao hàm lục hào , 64 quẻ tổng cộng có ba trăm tám mươi bốn hào , thuyết minh mỗi một hào hàm nghĩa là hào từ . Bởi vì 64 quẻ quẻ hào từ quá khó hiểu , Khổng Tử lại tăng thêm cần thiết chú giải thích , đây chính là 《 dịch kinh 》 của truyền văn , dịch truyền tổng cộng có 《 văn ngôn 》 , 《 thoán truyện » trên dưới , 《 tượng truyện » trên dưới , 《 hệ từ truyện » trên dưới , 《 nói quẻ truyện » , 《 tự quẻ truyện » , 《 tạp quẻ truyện » bảy loại , tính mười thiên , gọi là mười cánh . 2 , 《 dịch kinh 》 tại sao có giá trị Không chỉ có là cổ nhân , chính là hiện tại chúng ta đến đường phố bên trên đoán tới xem bói người, vậy không chỉ là hỏi một chút cát hung họa phúc , càng nhiều là hỏi làm sao bây giờ mới có thể gặp dữ hóa lành , gặp nạn hóa lành . Nguyên do xem bói của kết quả là hy vọng đạt được làm sao biện pháp giải quyết vấn đề . Khi như thế bây giờ là dựa vào xem mệnh tiên sinh hiện miệng lưỡi lưu loát của miệng rộng , mà cổ đại lại là bộ phận hoặc quốc gia trong cực kỳ có kiến thức , cực kỳ có kinh nghiệm của người của suy nghĩ sâu xa thành thục suy nghĩ , bọn hắn xử lý các loại vấn đề ghi chép ghi chép liền có thể mở phát sinh chúng ta làm sao tránh hung tìm cát , làm sao sống yên ổn nghĩ đến ngày gian nguy . Đây chính là 《 dịch kinh 》 của giá trị . 3 , bát quái của ký hiệu 《 dịch kinh 》 của biểu hiện phương pháp là "Giả tượng rõ ý" đấy, nó triết lý là thông qua tượng đi xa hình thức biểu đạt . 64 quẻ đều là do bát quái trùng điệp mà thành , bát quái là cơ bản nhất tượng đi xa ký hiệu . Chu hi 《 chu dịch nghĩa gốc 》 bên trong có 《 bát quái thủ tượng ca 》: Càn tam liên , khôn sáu đoán , chấn ngửa vu ( đọc tại ) , cấn che bát , Ly trong nhẹ , Khảm trong tràn đầy , Đoài bên trên thiếu , tốn ( đọc dạy bảo ) dưới đoán . Bát quái thủ tượng ca từ đầu bắt đầu học dịch kinh Càn , khôn phân khác do tam dương hào , tam âm hào tạo thành . Khảm của quẻ hình như đồng văn tự cổ đại thủy chữ , thủy tồn tại ở hố Khảm ở bên trong . Cách quẻ hình thì cùng của trái ngược nhau , có thể cùng Khảm liên hệ tới ghi nhớ . Đoài chữ phía trên là lưỡng điểm , Đoài của quẻ hình ở trên cũng là lưỡng điểm . Tốn chữ phía dưới là lưỡng điểm , tốn của quẻ hình phía dưới vừa lúc cũng là lưỡng điểm . Chấn của quẻ hình lấy chấn chữ ở giữa của bốn giờ cùng một ngang mà thành , cấn của quẻ hình thì cùng này trái ngược nhau . 4 , bát quái của ý nghĩa tượng trưng Quẻ càn: tam dương đồng thời lên chức , còn như thiên thể là dương khí dành dụm mà thành , nguyên do dùng để tượng đi xa thiên; lại bởi vì dương tính tráng kiện , mà thiên thể cũng là kiện tại vận hành , nguyên do càn tính chất là kiện . Quẻ khôn: tam âm đồng giảm , còn như thể ngưng tụ tập âm khí mà thành , nguyên do tượng đi xa mà; lại bởi vì âm tính hiền thục , mà mà thể vậy là yên tĩnh hoà thuận mà tiếp nhận thiên thể đấy, nguyên do khôn tính chất là thuận . Quẻ chấn: là một dương bên trên lên chức của lúc, nhận được hai âm hạ xuống của ngăn trở , lưỡng tương kích xáo , như sấm chấn động , nguyên do tượng đi xa sét; lại bởi vì một dương được hai âm ức chế nhất định động , mà sét vậy năng lượng chấn động vạn vật , nguyên do chấn tính chất là động . Quẻ tốn: là hai dương bên trên lên chức , một âm từ trong giảm dưới, trống rỗng mà khí thể lưu thông , nguyên do tượng đi xa gió; mà gió thổi là vô khổng bất nhập , nguyên do tốn tính chất là chui vào . Khác cái từ này , tốn của quẻ hình là hai dương động tại bên trên, như đồng thân cây , một âm tĩnh tại dưới, như đồng rễ cây , nguyên do quẻ này lại tượng đi xa mộc ( cây ); lại bởi vì cây cắm rễ ở địa, gốc rễ xâm nhập , nguyên do tốn tính chất là chui vào . Quẻ khảm: hình là một dương bao hàm tại hai âm ở bên trong , còn như đồng hồ nước âm mà bên trong dương ( Thủy là Âm chất , nhưng ở trong chứa dương tính nguyên tố ) , nguyên do tượng đi xa thủy; lại bởi vì quẻ này một dương lâm vào hai âm ở bên trong , mà thủy sở tồn vậy đều là trũng của địa, nguyên do Khảm tính chất là hãm , là hiểm . Quẻ ly: hình là hai dương hiển tại ngoại , một âm bao hàm tại bên trong, còn như lửa biểu hiện dương mà bên trong âm , nguyên do tượng đi xa hỏa; lại bởi vì quẻ này hai dương bổ sung lấy tại một âm của bên trên, mà lửa thiêu đốt vậy nhất định phải bổ sung lấy tại nhiên liệu , nguyên do Ly tính chất là bổ sung . Quẻ cấn: hình là một dương cư tại hai âm của bên trên, còn như núi đỉnh chóp là dương , nó dưới chất chứa âm chất , nguyên do tượng đi xa Sơn; lại bởi vì Sơn đều là đứng im bất động đấy, nguyên do cấn tính chất là tĩnh dừng lại . Quẻ đoái: hình là một âm tại hai dương của bên trên, còn như hồ bên trên của Thủy là Âm , đáy hồ là dương , nguyên do tượng đi xa trạch; lại bởi vì đầm năng lượng tưới nhuần vạn vật , khiến của lộ ra vẻ vui thích , nguyên do Đoài tính chất là vui mừng . 64 trùng quái do bát quái trùng điệp mà thành , bát quái tượng nghĩa là 64 quẻ lý của căn bản . Thường trùng quái tổng cộng có lục hào , hào của thứ tự là tự dưới mà lên sắp xếp . Hào danh dụng hai chữ tiêu xuất , một chữ biểu thị vị thứ , từ thứ nhất hào đến thứ sáu hào phân khác gọi là sơ , hai , ba, bốn , năm , bên trên; khác một chữ biểu thị hào tính , hào dương dụng số lẻ chữ số 9 biểu thị , âm hào dụng số chẵn sáu chữ biểu thị . Hào danh của hai chữ , thứ nhất hào cùng thứ sáu hào biểu hiện vị thứ của sơ chữ , bên trên chữ phía trước , ở giữa hào bốn biểu hiện vị thứ của hai , ba, bốn , năm chữ tại sau . Mỗi một hào đều có hào từ , hào từ sau đó cũng có kèm lấy tượng . Nói mở đầu mấy câu , là Khổng Tử làm 《 tiểu tượng truyện » , để mà giải thích hào từ . 《 dịch kinh 》 64 quẻ , thường quẻ quái từ cùng sáu thì hào từ , thông qua giả tượng rõ ý của tượng đi xa thủ pháp , nêu lên cái quẻ ẩn chứa sự vật vận hành , biến hóa , phát triển quy luật . Quái từ thường thông qua quẻ tượng , đặc biệt là trên dưới hai thể ý nghĩa giải thích quẻ . Vậy tức trùng quái của trên dưới hai cái chỉ quẻ ý nghĩa tượng trưng đến giải thích quẻ lý . Mà lục hào của quẻ lý là thông qua hào tượng , tức hào vị đặc biệt đi xa cùng mỗi bên hào quan hệ đến phản ánh , do hào từ dụng giả tượng rõ ý của tượng đi xa thủ pháp để diễn tả . Mỗi một hào của hào vị đặc biệt đi xa cùng mỗi bên hào quan hệ phức tạp tình hình , chính là vạn sự vạn vật của quan hệ phức tạp của phản ánh , cũng là sự vật nào đó tại một loại nào đó đặc biệt tình hình dưới biến động , quy luật phát triển của phản ánh . Hào tượng trong chỗ ẩn hàm của triết lý , chính là thông qua hào vị đặc biệt đi xa cùng mỗi bên hào quan hệ đến thể xuất hiện . 5 , 《 dịch kinh 》 của giải thích hệ thống cùng ký hiệu hệ thống Lục hào của sơ , hai , ba, bốn , năm , trên, phân biệt xuất cấp sáu cao thấp bất đồng của chờ thứ , tượng đi xa sự vật quá trình phát triển trong vị trí của trên dưới , quý tiện , trước sau địa vị , tình trạng , giai đoạn các loại, cái này sáu cái chờ thứ cấu thành sáu cái bất đồng của hào vị . Từ sáu cái hào vị vị trí của địa vị của tính chất mà nói , dụng người cổ đại của xã hội địa vị là rõ , sơ là thứ dân , hai là kẻ sĩ , ba là đại phu , bốn là công hầu , năm vì thiên tử , bên trên là thái thượng hoàng . Từ sáu cái hào vị đại biểu sự vật của giai đoạn phát triển mà nói , sơ vị là phát sinh phương diện giai đoạn manh nha , ứng tiềm ẩn vật dụng; hai vị là bộc lộ tài năng tài hoa giai đoạn , ứng thích hợp tiến thủ; tam vị là công lao sự nghiệp chút thành tựu giai đoạn , ứng cẩn thận phòng hung; bốn vị là tân nhân cao tầng giai đoạn , ứng cảnh cụ xem xét thời; năm vị là thành công viên mãn giai đoạn , ứng chú ý chỗ chín giới doanh; bên trên vị là phát triển chung cực giai đoạn , ứng chú ý cùng cực nhất định ngược lại . Này ngoại , lục hào bên trong có làm chủ của hào , gọi là chủ quẻ . Chủ quẻ thêm lấy hào năm ( tung quẻ ở bên trong vị ) . Hào vị lại có lúc vị , không làm vị của phân . Phàm hào dương ở vào dương vị ( sơ , ba , năm là lạ số , là dương vị ) , âm hào ở vào âm vị ( hai , bốn , bên trên là số chẵn , là âm vị ) , đều gọi là lúc vị , tượng đi xa sự vật của phát triển biến hóa phù hợp quy luật ( tuân theo chánh đạo ) . Ngược lại , phàm hào dương ở vào âm vị , âm hào ở vào dương vị , đều gọi là không làm vị , tượng đi xa sự vật của phát triển biến hóa trái với quy luật ( thuộc lòng nghịch chánh đạo ) . Khi vị , không làm vị lại gọi là được chính , mất chính . Thông thường nói đến , lúc vị là cát , không làm vị là hung , nhưng cũng không phải là tuyệt đối , vẫn phải xem nhiều loại nhân tố , làm tổng hợp phán đoán . Đồng thời , lúc vị cùng không làm vị cũng sẽ có phát triển biến hóa , cho nên làm vị giả ứng thủ chính phòng hung , không làm vị giả ứng xu thế chính tìm cát . Bên ngoài , sơ , bên trên lưỡng hào không tồn tại lúc vị , không làm vị của vấn đề , bởi vì sơ hào chức thấp thế nguy , âm dương chỗ của đều là lúc thâm tàng chớ vào; mà lên hào vị cực thế nguy , cương nhu ở của cũng ứng để phòng suy nguy . Bởi vì thứ hai hào ở vào quẻ hạ của trong vị , hào năm ở vào tung quẻ ở bên trong vị , hai cái này vị trí cực tốt , gọi là ở ở bên trong, tượng đi xa thủ cầm nửa đường , hành vi không được thiên . Hào dương ở trong vị , tất có mới vừa trong của đức; âm hào ở trong vị , tất có nhu trong của đức . Nếu như vừa vặn âm hào ở vào thứ hai vị ( sáu hai ) , hào dương ở vào thứ năm vị ( chín năm ) , đó chính là tức trong mà lại chính , gọi là công bình , là tốt nhất tượng đi xa . 《 dịch kinh 》 sùng thượng ở ở bên trong, công bình , phù hợp trung dung của đạo , trung hoà vẻ đẹp . Tại lục hào ở giữa , bởi vì mỗi bên hào của vị thứ , tính chất , xa khoảng cách gần các loại nhân tố , thường thường biểu hiện ra nhận , nhân , so với , ứng quan hệ , phản ánh sự vật tại phức tạp vòng cảnh trong phát triển biến hóa của có lợi hoặc bất lợi bên ngoài tình trạng . Phàm liền nhau lưỡng hào , như âm hào tại hào dương của bên trên, gọi là nhân , tượng đi xa yếu đuối giả nhân lăng kiên cường giả , tiểu nhân nhân lăng quân tử , hào nghĩa thường thường không tốt . Như mấy cái âm hào đều tại một cái hào dương của bên trên, thì mấy cái này âm hào đối cái này một hào dương đều có thể hiệu nhân . Trái ngược nhau , phàm liền nhau lưỡng hào , như âm hào tại hào dương phía dưới, thì gọi là nhận , tượng đi xa hèn mọn yếu đuối giả thuận nhận tôn quý cao kiên cường giả , thỉnh cầu viện trợ . Lúc này hào nghĩa của lành dữ phải xem cụ thể tình hình mà định ra , thông thường nói đến , lưỡng hào âm dương lúc vị giả là cát , lưỡng hào âm dương không làm vị giả thêm hung . Như một cái âm hào của bên trên có mấy cái hào dương , thì cái này một âm hào đối mấy cái hào dương đều có thể hiệu nhận . Phàm tướng hiệu lưỡng hào , đều có thể gọi là so với . Lưỡng hào hỗ so với , tượng đi xa sự vật ở vào lân cận vòng cảnh bên trong tác dụng cùng phản tác dụng , có thể thông qua lưỡng hào của âm dương nhận nhân quan hệ tăng thêm phân tích . Tại một quẻ ở bên trong, quẻ hạ tam hào cùng tung quẻ tam hào tại tương ứng vị trí bên trên là lưỡng lưỡng đối ứng ( tức sơ hào cùng hào bốn , hào hai cùng hào năm , tam hào cùng hào thượng ) . Đối ứng của hào , như là một Âm một Dương, cùng nhau giao cảm , gọi là có ứng; nếu như cũng là hào dương , hoặc giả cũng là âm hào , không được giao cảm , liền gọi là không ứng . Hào vị của có ứng , không ứng , tại phân tích hào tượng thời thường xuyên dùng đến , cái này dấu hiệu cho sự vật ở giữa hài hoà , thống một cùng mâu thuẫn , đối lập của vận động quy luật . Mỗi bên hào ở giữa nhận , nhân , so với , ứng quan hệ , khá phức tạp . Như vậy thì có thể dùng lục hào biến hóa mô phỏng sự vật phức tạp biến hóa phức tạp , lục hào lại là sự vật nào đó tại một loại nào đó thời không tượng bên trong đi xa . Nguyên do hào tượng của suy diễn thể thức là mười phần phức tạp thêm biến . Quẻ hào ký hiệu là một cái mở bỏ hệ thống , nó ý nghĩa tượng trưng là bởi vì lúc, bởi vì sự tình , bởi vì người mà khác đấy, mà quẻ hào ký hiệu của hàm súc tính , đa nghĩa tính , bao dung tính , lại năng lượng sản sinh phong phú loại suy liên tưởng , nguyên do , đọc 《 dịch kinh 》 nhất định phải sẽ gượng ép bổ sung sẽ cùng trông mặt mà bắt hình dong . 64 quẻ chưa từng đồng góc độ gợi ý tại đặc biệt dưới bối cảnh của sự lý , như Thái quẻ tượng đi xa thuận lợi thời của sự lý , phủ quẻ tượng đi xa không may thời của sự lý , tụng quẻ tượng đi xa cãi cọ thời của sự lý , sư quẻ tượng đi xa xung đột thời của sự lý , tức tế quẻ tượng đi xa thành công thời của sự lý , mùi tế quẻ tượng đi xa thất bại thời của sự lý , vân vân. Thường quẻ lục hào biến hóa , phản ánh sự vật tại đặc biệt thời gian giai đoạn trong phát triển đến mỗi một giai đoạn của quy luật . Ngã cho rằng 64 quẻ chỗ biểu thị là người sinh vấn đề 64 cái chuyên đề , ba trăm tám mươi bốn hào chính là ba trăm tám mươi bốn loại người sinh chỗ cảnh . |
|
Đến từ: Loan mới >《 dịch kinh 》